Thành công của khách hàng

Là thành công chúng tôi

Tiếng Việt English

QUY ĐỊNH VỀ CHIA THỪA KẾ?

Hiện nay có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc (được quy định tại Chương XXII BLDS 2015) và thừa kế theo pháp luật (được quy định tại Chương XXIII BLDS 2015). Nghĩa là hai hình thức này đồng thời được áp dụng trong việc phân chia di sản của người chế để lại. Di sản của người chết có thể vừa được chia theo di chúc, vừa được chia theo pháp luật hoặc di sản chỉ được chia theo một hình thức, tuỳ thuộc vào việc người chết có để lại di chúc hay không hoặc tuỳ thuộc vào phần của di chúc không có hiệu lực thi hành hoặc toàn bộ di chúc không có hiệu lực trong việc chia di sản của người để lại di chúc.

1. Thừa kế theo di chúc:

1.1. Di chúc là gì?
            Theo Điều 624 BLDS 2015 quy định “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Cần phải hiểu rằng, di chúc là sự thể hiện ý nguyện cuối cùng của người lập di chúc, do vậy pháp luật về thừa kế tôn trọng và bảo hộ ý nguyện đó trong việc phân chia di sản của người đó cho những người thừa kế được chỉ định hưởng di sản theo di chúc. Tuy nhiên ý nguyện của người lập di chúc không phải bao giờ và khi nào cũng được pháp luật bảo hộ tuyệt đối mà quyền định đoạt của người lập di chúc còn bị hạn chế trong những trường hợp luật định.
1.2. Người lập di chúc:
            Để đảm bảo điều kiện di chúc thể hiện đầy đủ ý chí của cá nhân, Điều 625 BLDS 2015 quy định người lập di chúc phải là người đã thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Quyền của người lập di chúc được thể hiện rõ tại Điều 626 BLDS 2015 như sau:
“1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”
Đối với cá nhân người để lại tài sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của bản thân sau khi họ chết. Quyền định đoạt của người có tài sản lập di chúc chỉ có hiệu lực khi việc định đoạt bằng di chúc thoả mãn các điều kiện về di chúc hợp pháp được quy định tại Điều 630 BLDS 2015 như sau:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Ngoài ra, quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật mà không buộc phải nêu rõ lý do. Nếu bị truất quyền thừa kế thì người thừa kế không còn quyền hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật. Nếu người thừa kế không được chỉ định trong di chúc thì chưa hẳn đã bị truất quyền hưởng di sản bởi vẫn được quyền hưởng thừa kế theo pháp luật.
1.3. Hình thức của di chúc:
            Điều 627 BLDS 2015 quy định “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc bằng miệng”. Theo đó:
            Thứ nhất, di chúc bằng văn bản gồm các loại (1) di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; (2) Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; (3) Di chúc bằng văn bản có công chứng và (4) Di chúc bằng văn bản có chứng thực. Tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mà người lập di chúc lựa chọn một trong các loại theo quy định để thể hiện ý chí định đoạt tài sản của mình.
            Thứ hai, di chúc miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc miệng chỉ được công nhận trong trường hợp (1) tính mạng của một người bị cái chết đe doạ và không thể lập di chúc bằng văn bản; (2) sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ (Điều 629 BLDS 2015). Theo quy định trên, di chúc miệng chỉ được công nhận với những điều kiện về hình thức và thủ tục rất nghiêm ngặt.
1.4. Hiệu lực pháp luật của di chúc:
            Hiệu lực của di chúc được quy định khá chi tiết tại Điều 643 BLDS 2015 như sau:
“1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.”
1.5. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
            Nhằm bảo vệ quyền lợi cũng như bảo đảm cuộc sống của một số người trong một số trường hợp, Điều 644 BLDS 2015 quy định những người sau đây vẫn được hưởng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ những người từ chối nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản, đó là:


- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Thừa kế theo pháp luật:
2.1. Khái niệm:
            Như phân tích ở trên, sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang cho người còn sống được thực hiện theo một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại di sản và quy định của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào ý chí của người chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc; còn căn cứ vào quy định pháp luật thì được gọi là thừa kế theo pháp luật. Mặt khác, Điều 649 BLDS 2015 đã định nghĩa thừa kế theo pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
2.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
            Điều 650 BLDS 2015 quy định về những trường hợp thừa kế theo pháp luật như sau:
            Một là, trường hợp không có di chúc. Đây là những trường hợp mà ngời để lại di sản không lập di chúc hoặc có lập di chúc nhưng đã huỷ di chúc đều được coi là không có di chúc. Theo đó, toàn bộ di sản của người chết để lại sẽ được chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
            Hai là, trường hợp có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Di chúc không hợp pháp là di chúc không đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại Điều 630 BLDS 2015 vậy nên sẽ không có hiệu lực pháp luật và di sản liên quan đến di chúc đó sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một di chúc bất hợp pháp có thể sẽ không có hiệu lực pháp luật ở nhiều mức độ khác nhau như vô hiệu toàn bộ hay một phần.
            Ba là, trường hợp toàn bộ những người thừa kế đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, các cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc đều không có người thừa kế theo quy định của pháp luật. Như vậy, một người vừa được hưởng di sản thừa kế theo di chúc lại vừa được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật nếu họ là người tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì toàn bộ di sản của người lập di chúc được dịch chuyển cho những người thừa kế theo pháp luật của người đó. Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan đến họ mới được áp dụng thừa kế theo pháp luật để giải quyết.
            Bốn là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng đối với phần di sản không được định đoạt trong di chúc. Nếu người để lại di sản chỉ định đoạt một phần di sản thì phần còn lại sẽ được áp dụng chia cho những người nằm trong hàng thừa kế (trừ khi họ là người bị người lập di chúc chỉ rõ chỉ được hưởng phần di sản theo di chúc hoặc bị truất quyền thừa kế theo di chúc).
            Năm là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản. Những người đáng lẽ được hưởng di sản thừa kế theo di chúc nhưng lại thực hiện những hành vi đã quy định tại Khoản 1 Điều 621 sẽ không được hưởng di sản trừ trường hợp người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng theo di chúc; Trong trường hợp toàn bộ những người thừa kế theo di chúc đều không có quyền hưởng di sản thì áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ di sản mà người lập di chúc để lại; Trong trường hợp chỉ có một số người thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản thì chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản mà người lập di chúc để lại cho một số người có hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.
            Sáu là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản. Người thừa kế có quyền nhận, có quyền từ chối hưởng di sản của người chết để lại. Phần di sản liên quan đến người đã từ chối sẽ được áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác. Vì thế, khi người này từ chối hưởng di sản theo di chúc thì họ vẫn có thể hưởng thừa kế theo pháp luật. Nhưng trong trường hợp họ đã từ chối toàn bộ quyền hưởng di sản gồm cả phần theo di chúc và cả phần theo pháp luật thì toàn bộ phần di sản này sẽ chia theo pháp luật cho những người thừa kế của người lập di chúc.
2.3. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật:
Diện thừa kế theo pháp luật:
Thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch chuyển di sản thừa kế của người chết để lại theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp luật. Nghĩa là theo trình tự này thì ai được hưởng di sản của người chết để lại, hưởng như thế nào, hưởng bao nhiêu…hoàn toàn do pháp luật xác định. Tuy nhiên, khi xác định phạm vi những người được hưởng di sản của người chết để lại, pháp luật về thừa kế của bất kỳ quốc gia nào cũng phải dựa trên ý chí mang tính truyền thống của người để lại di sản là nếu họ chết thì tài sản còn lại của họ phải được dịch chuyển cho những người thân thích của họ. Vì vậy có thể hiểu: Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể được hưởng di sản theo pháp luật của người chết nếu giữa họ với người chết đang tồn tại mối quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng cho đến thời điểm mở thừa kế hoặc giữa họ có huyết thống trong phạm vi hai đời bàng hệ và bốn đời trực hệ.
Hàng thừa kế theo pháp luật.
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại. Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 đã quy định khá cụ thể về các hàng thừa kế theo pháp luật như sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Như vậy, quyền để lại di sản và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong bất kỳ một xã hội nào ở bất cứ nhà nước nào, vấn đề thừa kế cũng chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật. Hiện nay, nền kinh tế đất nước ta đang rất phát triển, vấn đề khu vực hóa, toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, cùng với mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền Việt Nam, các quyền của con người, quyền công dân ngày càng được ghi nhận và quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý, trong đó có quyền thừa kế của người dân đối tài sản mà người để lại di sản thừa kế cho mình.


LIÊN HỆ LUẬT KHANG TRÍ:

Với đội ngũ luật sư và chuyên viên pháp lý tận tâm, chuyên nghiệp, hệ thống tổng đài của chúng tôi luôn phục vụ 24/24h nhằm mang đến cho khách hàng sự hỗ trợ nhanh nhất và hiệu quả nhất.

Hotline: 0987 140 772

Email:

Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và thực hiện các dịch vụ pháp lý nhanh chóng, uy tín và hiệu quả.

Luật Khang Trí – Giải pháp của thành công !